Ðông Hồ – một cái tên làng quen thuộc, xinh xắn, nằm bên bờ sông Ðuống, cách Hà Nội chỉ tầm 30km, từ lâu, đã đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc.

Làng Đông Hồ có tên Nôm là làng Mái nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

“Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh.”

Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất hiện từ khoảng thế kỷ XVI, tranh Đông Hồ được hình thành bằng phương pháp thủ công, là kết tinh của sự khéo léo và nhẫn nại, cộng với nghệ thuật thẩm mỹ đầy tinh tế… Đây không phải là những bức tranh được vẽ theo cảm hứng nhưng được in lại qua những bản khắc, và để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, đòi hỏi ở người vẽ mẫu cũng như người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao.

Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt truyện tranh.

Tranh Đông Hồ

Giấy dùng in tranh là loại giấy dó mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Ðông Hồ.

Ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của nó; màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu sơn lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp…Những năm gần đây có một số người khi in tranh đã từng dùng một số màu và hoá chất hiện đại, như thế sản phẩm có tăng nhưng chất liệu màu của tranh không tươi màu sắc nét như tranh làm truyền thống. Ðã thế, chỉ trong một thời gian ngắn màu sắc bị phai nhạt.

Tranh dân gian Ðông Hồ không áp dụng chặt chẽ về cơ thể học, các nguyên tắc về ánh sáng hay luật xa gần của tranh hiện đại. Những nghệ sĩ sáng tác tranh dân gian mang nhiều tính ước lệ trong bố cục, trong cách miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử dụng lối vẽ đơn tuyến bình đồ để thể hiện, do đó xem tranh dân gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý, hợp tình.

Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay – ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh dân gian với những cách thể hiện rất riêng.

Tranh Đông Hồ

Những ai đã yêu thích tranh Đông Hồ hẳn rất quen thuộc với các tranh gà: Gà mẹ con, gà đại cát, gà dạ xướng, kê cúc… hay đặc biệt nhất là bức Đám cưới chuột.

Ý nghĩa đặc sắc của tranh Đông Hồ “Đám cưới chuột”

Nhân vật mèo cường hào ác bá, họ hàng nhà chuột thấp cổ bé họng cả đời không được sống yên thân vì lo sợ sẽ bị mèo ăn thịt. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, bức tranh còn một màu sắc khác, màu sắc mang tính triết học mà giản dị của sự cộng sinh và chính điều này tạo nên những giá trị tư tưởng mang đậm văn hóa Việt.

Nhìn vào bức tranh “Đám cưới chuột”, ai cũng có thể thấy một ngày hội rực rỡ đang diễn ra. Gia đình nhà chuột không có vẻ gì cáu kỉnh, chỉ hơi nghiêm túc hơn một chút vì ít nhiều đó cũng là thời khắc của một đám cưới.

Nhân vật mèo nhận lễ trong tư thế trang trọng, có đôi chút dò xét nhưng cũng tỏ rõ thái độ tôn trọng ngày lễ lớn của đôi vợ chồng mới. Theo thang bậc của tự nhiên, sự chia sẻ này là cách để họ hàng nhà chuột giải quyết mâu thuẫn tự sinh giữa chuột và mèo. Họ hàng nhà chuột, vốn hiểu sự yên ổn của mình cần có cả sự no đủ của mèo nên đã “mừng mà làm” (“hưng tác”, chữ trên đầu nhân vật chuột thứ hai).

Đám cưới diễn ra rất đúng nghi lễ, ngựa anh đi trước, kiệu nàng theo sau. Chàng xênh xang hớn hở trong bộ áo gấm xanh, nàng mặc áo màu gụ. Họ được rước đi, rạng rỡ trên con đường làng màu son nhạt với những vạt cỏ màu mạ. Chuột chú rể được che lọng tía tượng trưng cho vinh quang, danh vọng lớn. Chuột cô dâu dịu dàng trong chiếc kiệu bát cổng có nhiều hoa văn trang trí. Bốn chú chuột hầu hạ, ghé vai khiêng. Đám rước còn có biển đỏ, dàn nhạc. Hai chú chuột thổi hai chiếc kèn có cung bậc khác nhau: Kèn pha và kèn đại.

Văn hóa làng xã của Việt Nam khiến mọi ngày lễ của gia đình đều trở thành ngày lễ của cả làng. “Người dân Việt Nam thường gia đình hóa các mối quan hệ xã hội, coi xã hội như một gia đình mở rộng nên họ lấy cái dĩ hòa vi quý làm trọng…” – GS Ngô Đức Thịnh, thuộc Viện Nghiên cứu Văn hóa.

Tranh Đông Hồ

Bức tranh gồm có hai nội dung chính: Thứ nhất, mô tả cảnh họ hàng nhà chuột dâng lễ cho mèo, làm nền cho nội dung thứ hai, đám cưới chuột diễn ra an bình hạnh phúc. Ở chân nhân vật chuột thứ nhất, được coi là chuột dạn dày kinh nghiệm đến nỗi mất cả đuôi có chữ “tống lễ” (dâng lễ). Bốn nhân vật chuột đi dâng lễ tỏ thái độ rất thân thiện và vui vẻ, niềm vui tự nhiên đến với con người mỗi khi được chứng kiến hoặc tham gia vào một lễ cưới, niềm vui đến một cách vô thức và trong ngày đó, con người như hiền hòa vị tha hơn. Hai nhân vật chuột thổi kèn chắc có lẽ đã làm mèo hết sức lấy làm vừa lòng, ắt hẳn mèo đã nhận lễ trong một cam kết kín đáo với chính cuộc sống của mình, trong một môi trường cực kỳ không đáng để giận dữ: Nhận lễ trong tiếng nhạc, thứ luôn khiến vạn vật vạn người thấy, hòa bình chung sống là điều hạnh phúc nhất.

Nhân vật mèo đứng đó chỉ như một lẽ tự nhiên của cuộc sống, một lẽ đời mà họ hàng nhà chuột hiểu hơn ai hết: tôi hạnh phúc và tôi muốn mèo cũng được hưởng những niềm vui ấy và “mừng mà làm” để hài hòa cuộc sống, để đôi bên cùng được hưởng niềm vui trong một ngày mà không ai muốn có chiến tranh xảy ra, ngày hạnh phúc không chỉ của đôi lứa mà còn là một sự cam kết thầm kín về một ngày sinh sôi nảy nở không xa, đích đến của mọi giao kết âm dương trên đời mang tên Phát triển” – Tiến sĩ Hán học Cung Khắc Lược.

Cuộc sống không đơn giản là đám cưới, cũng không chỉ có một loài mang tên Chuột sinh sống. Đó là lý do vì sao đoàn chuột chú bác kia mới cần phải khiến mèo cũng cảm thấy mình được no say trong một ngày mà cả làng say xưa uống rượu mừng

Tư duy cộng sinh này rốt cục cũng đã mang lại kết quả tốt đẹp cho họ hàng nhà Chuột. Đám cưới diễn ra thật tốt đẹp, thật hứa hẹn. Họ hàng nhà Chuột, trải qua bao đời đã trở nên mềm dẻo và thích ứng. Gọi đó là tư tưởng cũng tốt mà là bản năng sinh tồn mách bảo thì có lẽ giản dị và phù hợp với người Việt hơn, một dân tộc có những con người hiền hòa muốn chung sống hòa bình, muốn tất cả cùng được hưởng niềm vui, vì đích đến của cuộc sống, dù rộng lớn bao nhiêu thì cũng là sinh sôi nảy nở.

Đông Hồ có chợ tranh tấp nập vào tháng Chạp với năm phiên chợ vào các ngày 6, 11, 16, 21, 26. Mới tờ mờ sáng dòng người khắp nơi đã đổ về làng Hồ nhộn nhịp như trẩy hội. Có nhiều người đến để mua bán tranh nhưng cũng không ít người đến chỉ để thỏa trí tò mò hay muốn thưởng lãm tranh Đông Hồ. Nhiều người không quản ngại đường xa đã lặn lội về đây với tâm niệm ngày Tết có một vài bức tranh Đông Hồ treo trong nhà thì coi như năm đó gia đình sẽ yên ấm, gặp nhiều may mắn, làm ăn sung túc…

YesVietnam tổng hợp từ nhiều nguồn

Vị trí


0 Comments

Leave a Reply

Avatar placeholder

Your email address will not be published. Required fields are marked *